Huế là đất cố đô nằm giữa Hà Nội và Sài Gòn. Huế không chỉ nổi tiếng về cảnh đẹp thơ mộng của sông Hương – núi Ngự mà còn rạng rỡ cả một khu kiến trúc cung đình với đàn Nam Giao để tế trời đất, khu hồ Quyền – nơi diễn ra trò voi hổ đấu nhau, Văn thánh miếu thờ Khổng Tử và ghi tên tiến sĩ các đời cùng nhiều lăng tẩm và đền, chùa, miếu mạo nổi tiếng khác…
Dân Huế phần lớn là người gốc Bắc. Năm 1858, trước thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, một số dân đã theo Nguyễn Hoàng từ miền Bắc vào khai khẩn đất đai, sinh cơ lập nghiệp. Vì thế tuy sinh sống ở đây đã lâu, tiếp thu nhiều văn hoá miền Nam, nhưng người dân vẫn còn giữ nhiều phong tục cổ truyền đất Bắc.
Ngày tết Nguyên đán cũng được người Huế quan niệm là lúc “tống cựu nghênh tân”, là thời điểm bắt đầu một chu kỳ tiếp theo của đời người nên dù giàu hay nghèo, mỗi nhà đều cúng tất niên và giao thừa vào ngày và đêm 30, cúng Nguyên đán vào sáng mồng 1, cúng đưa ông bà tổ tiên vào ngày mồng 3 hoặc 4 tết. Trước tết hàng tháng, người dân Huế đã lo mua dần các thứ dùng trong ngày tết, dành tiền mua lễ vật và gần tết lo chạp mả rước các cụ “về” ăn tết.
Ngày 23 tháng chạp, không khí tết đã tràn ngập khắp nơi. Cây nêu được dựng lên trong sân nhà, sân chùa. Tục trồng nêu vốn có từ miền Bắc theo dân vào đây và vẫn được duy trì. 23 tháng chạp cũng là ngày cúng tiễn ông Táo lên chầu trời. Trong những ngày này, ở mỗi gia đình việc nấu nướng chuẩn bị món ăn cho ngày tết cũng đang được các bà mẹ lo toan.
Trước nhất là lo làm các loại mứt. Mứt ở Huế cũng có nhiều thứ: mứt bí, mứt khoai, mứt kim quất, mứt thơm, mứt gừng, mứt sen, mứt táo… Người nội trợ Huế rất khéo léo khi nấu các món ăn ngày tết. Dù ở hoàn cảnh nào, họ cũng cố sao cho mâm cỗ tết vừa ngon lành vừa giản dị, thể hiện được tài chế biến của người nữ. Ngày 27-28 tết, mọi nhà lo gói bánh, ngoài bánh chưng, bánh tét, người Huế còn thích ăn một số bánh khác như bánh phu thê (su sê), bánh hỏi, bánh sen chấy, bánh măng, bánh dừa mặn…
Trong các loại thức ăn, dưa món là thứ không thể thiếu trong mâm cỗ tết của người Huế. Dưa món gồm dứa và củ cải thái miếng phơi săn trộn với ớt chín, cà muối, đu đủ, cà rốt, nước mắm, đường. Món này muối trước tết độ 5-7 ngày cho ngấm. Những món được ưa thích khác như hành dầm dấm, xà lách gân bò, chả tré, chả tôm, nem bò lụi, chả thủ, chả da, chả lụa… đều được các bà nội trợ chuẩn bị chu đáo trong 3 ngày tết. Hành dầm dấm được phơi nắng, muối với đường trước tết vài ngày, lúc ăn trộn thêm tỏi và ớt.
Chả tré làm bằng thịt bò ba dọi rán vàng, thái chỉ trộn với riềng, tỏi, ớt, muối, đường, thính. Món này ăn với bánh tráng mè (đa vừng) và rau ngò. Muốn ăn tré chua, người ta gói chặt tré thành từng gói nhỏ bằng lá chuối, bên trong lót lá ổi. Để vài ba ngày tré sẽ có vị chua gần giống nem chua ngoài Bắc. Chả tôm làm bằng tôm tươi lột vỏ giã nhuyễn trộn mỡ phần, hàn the, lòng trắng trứng, dàn tôm lên lá chuối hấp chín ăn với dưa món và nước chấm. Muốn ăn chả tôm chiên (rán) thì sau khi hấp đem rán lên ăn với rau sống, nước chấm…
Món ăn ngày tết ở Huế phần lớn là những món nhắm hoặc ăn vã, ăn chơi. Có thể chia món ăn Huế thành 3 loại: chay, bình dân và ngự thiện. Ngự thiện là những của ngon vật lạ dành cho vua chúa trong cung đình. Sau này một số món ăn ngự thiện hoà nhập món ăn bình dân không còn ranh giới rõ rệt như chả giò, tré, nộm, nem…
Món chay là những món ăn có tên gọi giống cỗ mặn như vịt tiềm, vi (vây) cá, măng tây nấu cua, thịt bò xào sả, ca ri gà, nem nướng, bì cuống, hạnh nhân xào.., nhưng món ăn chay được chế biến từ những thực vật tươi hoặc khô được lên men. Món chay ăn ngon và dễ tiêu, được những người theo đạo Phật ưa thích.
Người Huế rất thích uống trà, nhiều loại hoa được ướp trà dùng trong ngày tết như hoa nhài, hoa mộc, hoa sen, hoa sói… Hoa được ướp trong trà bằng nghệ thuật cầu kỳ. Người ta thường ướp lấy trà để uống và thết khách. Các loại trà Tàu đắt tiền như Tam Hỷ, ô Long được các gia đình phong lưu ưa chuộng, thường mua để uống trong dịp tết.
Lễ cúng tất niên được tổ chức vào buổi trưa hoặc chiều ngày cuối năm. Bữa cơm tất niên cũng là buổi “họp mặt” của người sống và người đã khuất. Con cái đã lấy chồng, lấy vợ ở riêng cũng về sum họp với cha mẹ, anh chị em. Không khí ấm cúng, đoàn viên sau một thời gian xa cách vì công việc và hoàn cảnh sống lúc này thật có ý nghĩa với từng thành viên trong đại gia đình.
Người Huế theo đạo Phật nên cúng Nguyên đán là cỗ chay vào sáng mồng 1 tết. Đơn giản thì cúng bánh trái, hoa quả, cầu kỳ hơn thì làm một mâm cỗ chay. Nấu cỗ chay là một nghệ thuật lâu đời có truyền thống ở Huế. Với tài sáng tạo và bàn tay khéo léo, phụ nữ Huế đã chế biến các loại thực vật bình thường như hoa chuối, nấm rơm, hạt sen, đậu phộng, củ đậu, nước dừa… thành nhiều món ăn thơm lạ miệng để cúng buổi sáng đầu năm. Ngày mùng 2 lại cúng đồ mặn như thường.
Ba ngày tết, người Huế rất thận trọng trong lời ăn tiếng nói và cử chỉ hành động. Những lời nói không đẹp như câu chửi, tiếng gắt đều không ai dùng. Mọi người giữ thái độ vui vẻ với cả những người mà hàng ngày mình vốn không ưa. Người ta còn kiêng cầm kim may vá sợ vất vả quanh năm; kiêng quét nhà sợ thần tài ra khỏi cửa; kiêng nhất là khách đến nhà để quên lại khăn tay, như vậy chủ nhà sẽ phải “gánh” nhiều khó khăn trong năm mới!
Huế có hơn 80 ngôi chùa cổ, trong đó có những ngôi chùa đẹp nổi tiến như chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Diệu Đế… Ngày tết, các chùa này và chùa Hoa Nghiêm, Hiếu Quang, Bảo Quốc, Bảo Lâm, Diệu Hỷ… lúc nào cũng đông nghịt người. Các tín đồ tấp nập mang lễ vật đến chùa với một tâm trạng vui vẻ và thành kính. Con trai, con gái cũng đưa nhau đến chùa để ngắm cảnh và cầu duyên.
Đi lễ chùa, vãn cảnh chùa cũng là dịp để con người thoát khỏi cảnh sống ồn ào và giao tiếp với thiên nhiên…