Kinh thành Huế (hay còn gọi Cố đô Huế) có tổng cộng 13 cửa thành trong đó: gồm có 10 cửa thành thông ra bên ngoài, 1 cửa thành nội bộ thông với Trấn Bình đài và 2 cửa đường thủy thông nước sông Ngự Hà với sông Kẻ Vạn phía Tây và sông Đông Ba phía Đông.
Các cửa thành được xây dựng và hoàn thiện trong một thời gian dài với các giai đoạn khác nhau. Phần cửa vòm xuyên qua tường thành của các cửa được xây dựng năm 1809 dưới triều vua Gia Long, còn các vọng lâu bên trên được xây dựng trong các năm từ 1824 đến 1831 dưới triều vua Minh Mạng.
Trong số 10 cửa của kinh thành, 8 cửa được đặt tên theo hướng: cửa Chánh Bắc, cửa Tây Bắc, cửa Chánh Tây, cửa Tây Nam, cửa Chánh Nam, cửa Đông Nam, cửa Chánh Đông, cửa Đông Bắc, chỉ có 2 cửa có tên riêng là cửa Quảng Đức và cửa Thể Nhơn ở mặt trước của Kinh thành. Đấy là tên chính thức, còn thực tế hầu như các cửa đều có tên dân gian khác.
Cửa Đông Nam (cửa Thượng Tứ)
Cửa nằm ở góc Đông Nam Kinh Thành. Vòm cửa được xây dựng vào năm 1809 dưới thời Gia Long, vọng lâu xây vào năm 1829 thời Minh Mạng. Sở dĩ cửa có tên gọi là Thượng Tứ vì ngày xưa ở gần bên trong cửa thành này, triều đình đã thiết lập một cơ quan tên là Viện Thượng Tứ, chuyên trông coi việc nuôi ngựa để kéo xe cho vua.
Cửa Thể Nhơn (cửa Ngăn)
Cửa này có tên thường gọi là cửa Ngăn, nằm phía Nam, bên trái Kỳ Đài của Kinh thành. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu bên trên xây năm 1829. Lúc đầu có tên là Thể Nguyên, năm 1829 xây vọng lầu bên trên cửa vòm, vua Minh Mạng sai đổi gọi là Thể Nhân (hoặc Nhơn) song dân gian thường gọi là Cửa Ngăn, vì mỗi khi vua và cung phi đi lối này từ Đại Nội ra Phu Văn Lâu, nhà Lương Tạ để hóng mát hoặc tắm sông thì quân lính ngăn không cho thường dân đi lại.
Bên đường phía trong cửa Thể Nhơn có đặt 4 khẩu súng thần công gọi là Tả đại tướng quân, gồm: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Cửa Quảng Đức (cửa Sập)
Cửa nằm ở mặt Nam của Kinh thành. Chữ Quảng Đức từ chữ dinh Quảng Đức – tên cũ của phủ Thừa Thiên.
Mỗi mặt kinh thành có 2 cửa, riêng mặt Nam (mặt trước kinh thành) có 4 cửa: ngoài 2 cửa Chánh Nam và Đông Nam, còn trổ thêm 2 cửa là Quảng Đức và Thể Nhơn, nằm sát hai bên kỳ đài.
Vòm cửa được xây dựng vào năm 1809, vọng lâu năm 1829. Trận lụt năm 1953 đã quét sập đổ hoàn toàn bộ phận vòm cửa và vọng lâu, vì thế dân chúng vẫn quen gọi là cửa Sập. Trong chiến sự năm 1968, cửa bị phá hoại nặng nề, và bị đóng. Năm 1998, cửa được phục chế lại.
Cửa Thể Nhơn, Quảng Đức dành cho vua và hoàng gia ra vào. Mỗi lần vua và hoàng gia ra thành, triều đình cho lính đóng lại, ngăn không cho dân chúng đi qua. Sau khi vua và hoàng gia trở vào trong Đại Nội rồi thì hai cửa bị ngăn ấy mới được mở ra lại để cho dân chúng đi như thường, vì vậy hai cửa này còn được gọi là cửa Ngăn Trên (cửa Quảng Đức) và cửa Ngăn Dưới (cửa Thể Nhơn).
Trận lụt năm 1953 làm sập cửa Ngăn Trên nên từ đó dân chúng gọi là cửa Sập. Và cửa Ngăn Dưới thì được gọi là cửa Ngăn cho gọn như ngày nay. Bên đường phía trong cửa Quảng Đức có đặt 5 khẩu thần công có tên gọi là Hữu đại tướng quân, gổm: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Cửa Chánh Nam (cửa Nhà Đồ)
Cửa nằm ở phía Nam Kinh thành, cuối đường Nguyễn Trãi, dân gian vẫn gọi là cửa Nhà Đồ. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu bên trên xây năm 1829. Lúc đầu, phía bên ngoài cửa có cục Tượng Ty, hay còn gọi là Đồ Gia, là kho chứa vật dụng, binh khí, dịch nôm na hai chữ Đồ Gia là Nhà Đồ, vì thế cửa Chánh Nam còn có tên gọi là cửa Nhà Đồ.
Cửa Nhà Đồ bị sụp đổ trong trận lũ năm 1953, sau này mới được phục dựng lại.
Cửa Tây Nam (cửa Hữu)
Cửa nằm ở phía Tây Nam của kinh thành, ở đầu đường Yết Kiêu, còn được gọi là cửa Hữu. Vòm cửa xây vào năm 1809, vọng lâu năm 1829.
Đêm 5.7.1885, vua Hàm Nghi đã xuất bôn từ cửa này ra khỏi kinh thành, ra chiến khu ngoài Quảng Trị, ban hịch Cần Vương kháng Pháp. Chiến sự năm 1968 làm cửa Hữu bị sập, sau này mới được phục dựng lại.
Cửa Chánh Tây
Cửa nằm ở phía Tây kinh thành, trên đường Thái Phiên. Vòm cửa được xây dựng vào năm 1809, vọng lâu bên trên xây năm 1829.
Trong chiến sự năm 1968, nơi đây từng là cửa ngõ giao tranh ác liệt, cửa bị tàn phá hoàn toàn phần vọng lâu phía trên, sau đó bị cấm đi lại. Nay cửa đã được phục hồi.
Cửa Tây Bắc (cửa An Hòa)
Cửa còn có tên là cửa An Hòa nằm ở góc Tây Bắc của kinh thành, nối từ đường Nguyễn Trãi ra thẳng đường Tăng Bạt Hổ.
Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu xây năm 1831. Người dân Huế gọi là cửa An Hòa vì trước mặt cửa thành này là làng An Hòa và chợ An Hòa.
Cửa Chánh Bắc (cửa Hậu)
Cửa này gọi là Cửa Hậu, vì nó tọa lạc tại mặt sau của kinh thành, nằm cuối đường Đinh Tiên Hoàng, nhìn ra đường Tăng Bạt Hổ. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu được xây dựng vào năm 1831.
Sau khi thực dân Pháp chiếm kinh thành Huế (1885), cửa Chánh Bắc và cửa Đông Bắc (cửa Kẻ Trài) bị đóng kín để lập đồn Mang Cá.
Do hậu quả của chiến tranh và thiên tai cửa đã bị hư hại, nên gần 120 năm hai cửa bị đóng kín. Ngày 21.5.2004, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã chính thức làm lễ khánh thành, khai thông cửa Chánh Bắc trở lại, sau 4 tháng thi công.
Cửa Đông Bắc (cửa Kẻ Trài)
Cửa có tên gọi dân gian là cửa Kẻ Trài, nằm ở góc Đông Bắc của Kinh Thành, bên bờ Tây của sông Đông Ba. Vòm cửa được xây dựng vào năm 1809, vọng lâu xây năm 1824.
Cửa này cùng cửa Đông Ba là 2 cửa đầu tiên được xây vọng lâu trong số các cửa của kinh thành. Như vậy, tuy mặt tường phía Đông Kinh thành được ốp gạch vồ sau mặt Tây (1822 so với 1818) nhưng các cửa thành mặt Đông lại được xây vọng lâu trước.
Kẻ Trài xưa là tên một xóm ở phía trước cửa thành. Nơi đây có chợ Mới, có Hàng Bè, có phố Đông Hội, thương nhân người Bắc đưa hàng hóa vào buôn bán, họ làm lều quán lúp xúp, thành những dãy nhà trài hai bên bờ sông, dân bản địa thường gọi là Kẻ Trài, từ đó cửa Đông Bắc cũng có tên là Kẻ Trài.
Cửa Chánh Đông (cửa Đông Ba)
Cửa nằm phía chính Đông và còn có tên gọi là cửa Đông Ba. Địa danh này phát xuất từ tên của pháo đài Đông Hoa có từ thời Gia Long. Đến đầu thời Thiệu Trị, vì triều đình kiêng dùng tên húy của mẹ nhà vua là bà Hồ Thị Hoa, cho nên đổi tên thành Đông Ba.
Vòm cửa được xây dựng từ năm 1809, vọng lâu năm 1824 – đây là một trong những cửa được xây vọng lâu đầu tiên trong số các cửa của Kinh thành.
Ngày 5.7.1885, nơi đây đã diễn ra trận giao tranh ác liệt giữa quân Pháp và quân triều đình do Tôn Thất Thuyết chỉ huy. Trong chiến sự năm 1968, cửa Đông Ba bị bom đạn đánh sập phần vọng lâu và hư hại nặng nề cửa vòm.
Trấn Bình Môn
Trấn Bình môn thuộc vòng tường thành của kinh thành, không phải là cửa thông ra ngoài thành mà là thông đến Trấn Bình đài, là pháo đài phòng thủ của kinh thành.
Cửa này được trổ ra ở giữa đoạn thành nối hai pháo đài Bắc Định và Đông Bình (của kinh thành) lại với nhau. Ngay trước mặt cửa là một chiếc cầu xây bằng đá và gạch bắc qua hào, dùng để nối liền mạch giao thông giữa hai địa phận của thành chính và thành phụ.
Tây thành thủy quan
Là cửa dẫn nước từ sông Kẻ Vạn vào Ngự Hà – con sông đào chảy ngang Kinh thành – vừa là đường tiêu thoát nước nội thành, vừa là đường thủy quan trọng để ghe thuyền khắp nơi chở hàng hóa về kinh thương (hệ thống kho tàng của triều đình, ở khu vực phía Bắc và phía Tây hồ Tịnh Tâm bây giờ).
Tây thành thủy quan được vua Minh Mạng cho xây dựng năm 1826, sau khi hoàn thành việc đào sông Ngự Hà. Đây là một cống vòm bên dưới cầu Tây thành thủy quan, có áp quan – tấm cửa gỗ – có thể đóng hoặc mở cho ghe thuyền đi qua.
Đông thành thủy quan
Là cửa dẫn nước từ Ngự Hà đổ ra sông Đông Ba. Cửa này là cống vòm bên dưới cầu Lương Y – được vua Minh Mạng cho xây dựng năm 1830 – ngày trước cũng có áp quan giống Tây thành thủy quan.
Trải qua bao biến động của lịch sử và sự tàn phá của chiến tranh, hầu hết các cửa thành đều chịu hư tổn ít nhiều, nhưng đã được ban ngành chức năng đầu tư nhiều thời gian và công sức để tu bổ, phục dựng lại hoàn chỉnh, mang lại vẻ đẹp cho kinh thành Huế. Tất cả chúng đều là thành phần không thể thiếu trong kho tàng di sản kiến trúc cố đô Huế.